Linh mục Jean Cassaigne Sanh

Đến Việt Nam, quản nhiệm Di Linh

Ngày 19 tháng 12 năm 1925, Cassaigne được thụ phong linh mục. Năm 1926, tên ông nằm trong danh sách 8 tu sĩ thừa sai đuợc cử đi các nước Viễn Đông: Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Lào. Trong đó, ông được chọn mục vụ tại Việt Nam.[1] Nhiệm sở chính thức được công bố vào ngày 10 tháng 2 năm 1926.[9]

Ngày 6 tháng 4 năm 1926, linh mục Cassaigne từ giã gia đình tại ga Lyon đi Marseille rồi qua Việt Nam, ngày 5 tháng 5, tàu cập bến Sài Gòn, Linh mục Cassaigne được đưa về Cái Mơn học tiếng Việt, chọn tên Việt Nam là Gioan Sanh.[7] Việc học tiếng Việt được tiến hành chỉ sau năm ngày linh mục Sanh đến Việt Nam. Ông được cử đến Cái Mơn và ở cạnh linh mục Delignon nhằm mục đích học tiếng Việt. Việc học tiếng Việt sau đó kết thúc sớm do nhu cầu truyền giáo, ông được cử làm linh mục quản nhiệm giáo điểm truyền giáo (thí điểm truyền giáo) tại Cao nguyên Trung phần DJIRING (Di Linh).[10] Việc bổ nhiệm này xảy ra vào ngày 24 tháng 1 năm 1927, khi Giám mục Isidore Marie Joseph Dumortier Đượm (MEP) cử linh mục Cassaigne đến Di Linh, một vùng chưa có tín hữu Công giáo và là nơi sinh sống của người dân tộc K’Ho.[10]

Sau kỳ cấm phòng, linh mục Cassaigne tháp tùng linh mục Nicolas đến Đà Lạt. Ngày 24 tháng 1 năm 1927, linh mục Cassaigne được đưa đến Di Linh. Hỗ trợ tân linh mục tại nơi này có một người hỗ trợ nấu ăn, ông Mười điếc và một cậu giúp lễ tên Nhân. Thánh lễ Công giáo đầu tiên được tổ chức tại một nhà dân thuộc vùng Di Linh vào ngày 30 tháng 1, ngoài vị linh mục chỉ có bốn người khác, gồm ông Mười điếc, cậu giúp lễ và cặp vợ chồng công nhân.[11] Tại Di Linh, ông được cung cấp một ngôi nhà dựng bằng cây, có gác. Ông cử hành lễ Công giáo tại một căn phòng thuộc căn nhà với bàn thờ là một bàn đọc. Việc cử hành lễ tại nhà này kéo dài đến sáu tháng sau khi ông đến đây. Nói về vật chất, ông cho biết nơi Di Linh không có nguồn lợi, nhưng vẫn có đồ dùng tiếp tế.[12]

Ngày 14 tháng 11 năm 1927, linh mục Jean Cassaigne mắc bệnh sốt rét và nằm li bì, không thể ăn uống trong thời gian một tuần. Sức lực ông cạn kiệt và thân hình xanh xao. Căn bệnh này thực tế lặp đi lặp lại trong suốt thời gian ông ở tại Di Linh, 14 năm. Tuy vậy, linh mục Sanh giấu bệnh với giám mục vì lo lắng bị thuyên chuyển đến nhiệm sở khác. Nhiều lần do thấy linh mục Sanh vắng mặt quá lâu, các linh mục có nhiệm sở ở gần Di Linh đến thăm thì phát hiện linh mục Sanh cùng các cộng sự viên là cậu giúp lễ và ông nấu ăn đều đang đau bệnh. Tuy vậy, việc thuyết phục linh mục này đến bệnh viện chữa bệnh là không thể vì ông kiên quyết ở lại với giáo dân.[13] Lần đầu tiên đưa được linh mục Cassaigne đến bệnh viện chỉ kéo dài chưa đầy một tháng, với nguyên do khởi sự từ giám mục Dumortier yêu cầu linh mục Quản lý đến thăm linh mục Cassaigne. Linh mục này sau khi nhận thấy tình hình tại đây đã yêu cầu đưa xe đến Di Linh đưa linh mục Cassaigne đến bệnh viện.[14]

Buổi đầu về nhận xứ, linh mục Sanh bận rộn với nhiều công việc khác nhau: truyền và dạy đạo lý Công giáo và nâng cao đời sống cho người dân. Vào ban ngày, ông dạy chữ cho trẻ em, ban chiều thì dạy lớp giáo lý Công giáo dành cho những người mong muốn gia nhập đạo Công giáo và đến tối mở lớp dạy học cho người lớn. Linh mục Sanh có biệ danh Oâng lớn làm thuốc vì ông thường chữa trị và phát thuốc khi có người đau ốm. Chính việc này mà ông nhận được sự quý mến từ nhiều người.[15] Chiều ngày 7 tháng 12 năm 1927, một người phụ nữ đồng ý theo Công giáo trước khi bà qua đời. Đây là tín hữu Công giáo đầu tiên tại vùng đất này được ông cho nhập đạo.[15][11] Sau đó hơn hai năm, ngày 19 tháng 3 năm 1930 mới có ông K’Brai theo Công giáo với tên thánh bổn mạng là Giuse.[11]

Đến Di Linh, linh mục Cassaigne tiếp cận với những người dân tộc bản địa và nhanh chóng học tiếng nói của họ. Vào thời gian này, tiếng dân tộc chỉ là ngôn ngữ nói, chưa có chữ viết. Ông thường xuyên trò chuyện và lần mò, sáng tạo các phiên âm tiếng dân tộc. Sau đó không lâu, ông đã có thể trò chuyện với người dân tộc cách thông thạo, dịch được một số kinh, bài hát ra tiếng dân tộc.[15] Quá trình học tiếng K’Ho của ông là nghe người dân tộc nói vào ban ngày và đến đêm thì biên soạn và dẩn cho ra đời cuốn sách "Thượng ngữ" bỏ túi với 3 thứ tiếng: K’Ho, Pháp, Việt,[7] lần đầu xuất bản ngày 28 tháng 12 năm 1929.[16] Sau đó, ông xuất bản cuốn “Phong tục tập quán người dân tộc Kơ Ho” vào tháng 12 năm 1937 và “Giáo lý cho người Kơ Ho” vào năm 1938.[17]

Năm 1936, họ đạo Công Hinh được thành lập và nhà nguyện họ đạo khánh thành vào ngày 15 tháng 8 cùng năm. Đầu năm 1939, linh mục Jean Cassaigne cùng giáo dân K’Brai đi thăm các làng Kulbum, B’Sout, K’Rot và cho hình thành giáo điểm Kala (nay là giáo xứ Kala, Giáo phận Đà Lạt).[18]

Sau 14 năm lãnh đạo xứ Di Linh, linh mục Jean Cassaigne đã đóng góp cho giáo hội Công giáo địa phương một nhà thờ cùng nhóm 795 giáo dân gồm: 15 người Pháp, 134 người Kinh, 218 người Thượng, 350 giáo dân tại Công Hinh, 78 người Thượng tại làng cùi. Ngoài ra còn có 133 tân tòng (người mới gia nhập đạo Công giáo) đang chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.[18]

Linh mục trẻ và người bệnh phong

Cuối năm 1928, trong chuyến thăm viếng làng Thượng xa, linh mục Jean Cassaigne tình cờ gặp gỡ những người mắc bệnh phong, đây là lần đầu tiên ông gặp những người bệnh. Những bệnh nhân này thân hình xác xơ và què quặt. Linh mục Cassaigne sau đó quyết định thành lập làng cùi trên khu đất trống dưới chân đồi mang biệt số 1081 cách nhà xứ Di Linh gần 1.000 mét. Ngày 11 tháng 4 năm 1929, làng cùi Di Linh chính thức được công nhận. Tổng số người cùi ngày khánh thành là 21 người, đến cuối năm 1929 tăng lên 33 người.[19]

Cùng trong năm 1929, Jean Cassaigne thành lập trường học đầu tiên tại Di Linh, lúc đầu trường chỉ có 2 lớp với 32 học sinh (toàn là người dân tộc Cơ Ho) đặt ở trong nhà xứ.[16]

Jean Cassaigne lâm bệnh sốt rét rừng, buộc phải về Pháp chữa trị trong 9 tháng,[7] từ ngày 2 tháng 4 năm 1932 đến ngày 22 tháng 2 năm 1933, khi ông từ Pháp về đến Sài Gòn.[19]

Ngoài các việc chăm sóc thông thường, linh mục Jean Cassaigne Sanh còn đóng vai trò hộ sinh, giúp một người mẹ phong cùi sinh con. Biết sự việc, Giám mục Drapier trách ông quá liều lĩnh. Ông giải thích: "Ở đây cả làng không có một y tá hay cô đỡ. Tôi là người duy nhất có 10 ngón tay. Nếu một người cùi chạm đến thai nhi thì nguy hiểm lắm. Bà sản phụ lại là một bệnh nhân lở loét, không ai dám đến gần". Công việc ngày càng nhiều, làng phong thêm con cháu, ông kêu gọi các nữ tu thuộc dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn giúp cha chia sẻ số phận của người phong và được 3 nữ tu hỗ trợ ông chăm sóc bệnh nhân.[7]

Tháng 6 năm 1936, linh mục Cassaigne cử hành nghi thức Công giáo, trao bí tích Rửa Tội cho 46 dự tòng, trong đó có 26 người mắc bệnh phong.[7] Ông mời các nữ tu Đà Lạt về Di Linh đỡ đầu cho các tân tòng phong, các Nữ Tử Bác Ái, các kinh sĩ thánh Âu Tinh dòng Đức Bà vui mừng và hết lòng cộng tác với ông về tinh thần và vật chất, như mở trường, dạy giáo lý… Nam Phương Hoàng hậu gửi một số tiền để tổ chức lễ Rửa tội cho các tân tòng, bà nhiệt tình ủng hộ công việc truyền giáo của ông hàng năm.[7]

Tại Di Linh, linh mục Cassaigne từng có dịp trả lời chất vấn với một thanh tra cao cấp của bộ Thanh tra Giáo dục Đông Dương khi ông này đi nhầm đến làng phong khi đang trong quá trình săn bắn. Khung cảnh của buổi hội thoại này xảy ra khi linh mục Sanh đang tiến hành băng bó cho một người rụng hết ngón tay, ngón chân:[7]

- Ông có quyền nào mà dám mở nhà điều trị căn bệnh ghê sợ này? Ông xuất thân từ Đại học Y khoa nào?

- Tôi chỉ là một linh mục nhưng thấy bệnh nhân quá khổ, sống chui rúc trong rừng sâu rồi chết chẳng ai hay biết, nên tôi thấy có bổn phận thương và chăm sóc họ. Nơi đây tôi vừa là giám đốc vừa là y tá, y công, kể cả hộ sinh nữa! Hiện nay có 129 bệnh nhân, tôi phải ngửa tay xin các nhà từ tâm trợ lực mới kéo dài được cuộc sống của họ đến hôm nay.

Sau cuộc trò chuyện này, một tháng sau đó, linh mục Sanh nhận được một thùng thuốc được ký gửi bởi Tổng Thanh tra giáo dục Đông Dương.[7]

Câu chuyện về tấm lòng của linh mục Jean Cassaigne Sanh lan truyền đến tận Paris. Năm 1939, ông được nhận Huy chương bạc của Hàn lâm viện y khoa Paris gửi tặng, dù ông chưa bao giờ đặt chân vào một trường y nào.[7]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Jean Cassaigne Sanh http://www.simonhoadalat.com/DIAPHAN/TRUYENGIAO/01... http://www.simonhoadalat.com/DIAPHAN/TRUYENGIAO/GM... http://hoatinhthuong.net/news/Nhung-cau-chuyen-y-n... http://www.catholic-hierarchy.org/bishop/bcassj.ht... http://www.gcatholic.org/dioceses/former/t0824.htm http://hdgmvietnam.org/chan-dung-linh-muc-viet-nam... http://baolamdong.vn/xahoi/201502/da-qua-85-mua-ra... http://www.cgvdt.vn/van-hoa-nghe-thuat/tim-lai-dau... http://cadn.com.vn/news/113_105393_mo-t-nguo-i-pha... http://www.lamdong.gov.vn/vi-VN/a/book/Pages/books...